QUYỂN HẠ - PHẦN GIẢI THÍCH
II. ĐỐI TRỊ TÀ CHẤP
Tất cả mọi tà chấp đều nương vào ngã kiến. Nếu lìa ngã thì không có tà chấp. Ngã kiến này có 2 loại. Thế nào là hai? Một là nhân ngã kiến, hai là pháp ngã kiến.
NHÂN NGÃ KIẾN là, cho 5 ấm thật có chủ tể. Đây là những kẻ mới học Đại thừa trong Phật pháp mê giáo vọng chấp, theo lời chấp nghĩa, chẳng phải chỗ khởi của hàng ngoại đạo.
PHÁP NGÃ KIẾN là, cho 5 ấm v.v… tất cả pháp, mỗi cái đều có thể tánh, là chỗ khởi của Nhị thừa.
Y nơi phàm phu mà nói thì có 5 loại.
Đây làm rõ nhân ngã kiến trước. Có 2 loại:
1/ Phàm phu chấp 5 ấm lấy làm thật ngã, do đây mà vọng khởi tà chấp. 2/ Chấp lấy bản giác trong Như Lai Tạng làm năng chứng nên nói tồn tại ngã giác ngã, là chỗ chấp của Bồ tát.
Nay nói nhân ngã kiến là nói phàm phu mới học Phật pháp nghe 2 môn phân biệt trước, chẳng hiểu là lìa ngôn, lại theo lời mà khởi chấp. Nên đều căn cứ vào chỗ nghe Phật pháp ấy mà nói.
-
Nghe Tudala nói “Pháp thân Như Lai rốt ráo vắng lặng giống như hư không”. Bởi chẳng biết chỉ là phá sự dính mắc, lại cho hư không là tánh Như Lai. Làm sao đối trị? Phải rõ tướng hư không là pháp hư vọng, không có thật thể, vì đối với sắc mà có, là tướng bị thấy, khiến tâm sanh diệt. Bởi tất cả sắc pháp vốn là tâm, thật không có sắc bên ngoài. Nếu không có sắc thì không có tướng hư không. Nghĩa là, tất cả cảnh giới chỉ từ nhất tâm vọng khởi mà có. Nếu tâm lìa vọng động thì tất cả cảnh giới đều diệt, chỉ là nhất chân tâm, không chỗ nào là chẳng khắp. Đây là nghĩa rốt ráo về tánh trí quảng đại của Như Lai, chẳng phải như tướng hư không. Đây là phá cái vọng chấp lấy cái không làm thể pháp thân. Vì chúng sanh chẳng thấu suốt được lý pháp thân là không tướng, chấp sắc thân Phật là sắc chất có chướng ngại, nên nói pháp thân giống như hư không để phá cái chấp đó. Người nghe chẳng hiểu bèn vọng lấy cái ngoan không cho là tánh Như Lai. Đây là tà chấp. LÀM SAO ĐỐI TRỊ là lời nói phá. Hư không là vọng pháp, là vọng tình biến kế, thể của nó chẳng thật, lý thì vốn không. Vì sao? Vì hư không này là do đối với sắc mà hiển, biến kế vọng chấp là có, khiến tâm sanh diệt, chẳng phải pháp thân. Vì sao hư không là pháp hư vọng? Vì tất cả sắc pháp chỉ từ tâm hiện, sắc vốn là không. Nếu không có sắc pháp thì hư không cũng không. Vì sao không và sắc đều không? Vì tất cả cảnh giới chỉ từ tâm vọng khởi mà có. Nếu lìa vọng niệm thì tất cả cảnh giới diệt ngay, chỉ là nhất chân tâm, không chỗ nào mà chẳng khắp. Cái này gọi là tánh trí quảng đại pháp thân Như Lai, chẳng phải như tướng hư không.
-
Nghe Tudala nói “các pháp thế gian, rốt ráo thể không” cho đến “pháp niết bàn chân như cũng rốt ráo không, xưa nay tự không, lìa tất cả tướng”. Bởi chẳng biết là do phá sự dính mắc, lại cho tánh của niết bàn chân như chỉ toàn là không. Làm sao đối trị? Phải rõ pháp thân chân như, tự thể chẳng không vì đầy đủ vô lượng tánh công đức. Đây phá cái chấp cho niết bàn chân như là cái “không” đoạn diệt. Vì có người chẳng rõ pháp thế gian và xuất thế gian giả danh không thật, cho là thật có nên nói rốt ráo thể không để phá cái lầm đó. Người nghe chẳng biết là lời nói phá, bèn chấp vào lời mà vọng nhận chân như niết bàn là cái “không” đoạn diệt. Làm sao đối trị? Phải rõ tự thể của pháp thân chân như chẳng không vì đầy đủ tánh vô lậu công đức. Trên chấp hư không làm pháp thân, đây chấp pháp thân là cái “không” đoạn diệt, đều rơi vào không kiến.
-
Nghe Tudala nói “Như Lai Tạng không có tăng giảm, thể của nó sẵn đủ tất cả pháp công đức”. Vì chẳng hiểu nên liền cho Như Lai Tạng có pháp sắc tâm, tự tướng sai biệt. Làm sao đối trị? Đó chỉ là y nơi nghĩa chân như mà nói. Nói sai biệt là y nơi sự thị hiện của nghĩa nhiễm ô sanh diệt. Đây phá cái chấp cho tánh Như Lai đồng với sắc tâm. Nghe nói, thể tánh Như Lai Tạng đầy đủ các công đức, vì chẳng hiểu vốn không sai biệt, bèn chấp Như Lai Tạng đồng với pháp sắc tâm sai biệt. Đây là nghĩa chẳng đúng, vì chấp chân đồng với vọng. Làm sao đối trị? Tất cả pháp vốn không có sai biệt, chỉ do chân như tùy duyên mà có. Pháp pháp đều chân, chỉ là nhất chân như. Sắc và tâm chẳng phải hai, vốn không sai biệt, chỉ nhơn nơi nghĩa sanh diệt nhiễm ô mà hiện bày các sai biệt. Như vậy là đối với vọng nhiễm mà nói có sai biệt. Tự tánh chân như há đồng với sắc tâm sai biệt ư? Đây là phá cái vọng chấp Như Lai Tạng đồng với sắc tâm.
-
Nghe Tudala nói “Tất cả pháp nhiễm ô sanh tử ở thế gian đều y nơi Như Lai Tạng mà có. Tất cả pháp chẳng lìa chân như”. Vì chẳng hiểu, cho là tự thể Như Lai Tạng có đủ tất cả pháp thế gian sanh tử … Làm sao đối trị? Bởi Như Lai Tạng, từ xưa đến nay, chỉ có vô lượng các công đức thanh tịnh, chẳng lìa chẳng đoạn, chẳng khác nghĩa chân như. Còn vô lượng pháp nhiễm ô phiền não chỉ là vọng có, tánh vốn tự không, từ vô thủy đến nay chưa từng cùng Như Lai Tạng tương ưng. Nếu thể của Như Lai Tạng có pháp hư vọng mà cho rằng chứng đắc có thể dừng hẳn được vọng, ắt không có việc này. Đây là phá cái chấp cho tánh Như Lai tạng có pháp nhiễm ô sanh diệt. Vì nghe nói, vọng nương chân mà khởi, lại chẳng hiểu nghĩa tùy duyên, bèn chấp tạng tánh có đầy đủ pháp nhiễm ô sanh tử. Đây là chấp chân có vọng nhiễm. Làm sao đối trị? Như Lai Tạng từ xưa đến nay đầy đủ vô lượng tánh công đức chẳng khác chân như. Các nhiễm pháp chỉ là vọng có, vốn không tự tánh, từ xưa đến nay chẳng cùng tạng tánh tương ưng. Nếu cho tạng tánh quả có pháp hư vọng thì việc chứng chân dừng vọng không thể có. Đây là 2 cái chấp, chấp tạng tánh đồng với sắc tâm và có pháp sanh tử nhiễm ô. Vì chẳng hiểu nghĩa tùy duyên, vọng chấp là thật có.
-
Nghe Tudala nói “Y Như Lai Tạng nên có sanh tử. Y Như Lai Tạng nên đắc niết bàn”. Do chẳng hiểu nên nói chúng sanh có chỗ khởi đầu. Do thấy có khởi đầu nên nói niết bàn Như Lai đạt được có tận chung, trở lại làm chúng sanh. Làm sao đối trị? Bởi Như Lai Tạng không có mé trước nên tướng vô minh cũng không có khởi đầu. Nếu nói ngoài tam giới lại có chỗ khởi đầu của chúng sanh là kinh của ngoại đạo nói. Như Lai Tạng không có mé sau, niết bàn mà chư Phật đạt được tương ưng nên cũng không có mé sau.
Đây là phá cái chấp thấy sanh tử niết bàn có đầu cuối. Nghe nói, nương Như Lai Tạng có sanh tử niết bàn, vì chẳng hiểu bèn chấp chúng sanh có khởi đầu còn niết bàn có tận chung, trở lại làm chúng sanh. Đây là do nghe vọng nương chân mà khởi, bèn cho là chân trước vọng sau nên chấp chúng sanh có khởi đầu, kế là chấp niết bàn có tận chung, trở lại làm chúng sanh, nên khởi cái thấy đầu cuối. Làm sao đối trị? Chúng sanh nhơn nơi vô minh mà có, tức do mê Như Lai Tạng. Mà tạng tánh thì không có mé trước, huống vô minh là cái không chỗ khởi đầu, há có chỗ khởi đầu của chúng sanh? Nếu nói ngoài tam giới có chỗ khởi đầu của chúng sanh là trong Đại Hữu Kinh của ngoại đạo nói, không phải Thất Phật nói. Lại, Như Lai Tạng không có mé sau mà niết bàn chư Phật đạt được cũng tương ưng, há có chỗ chung tận ư?
5 cái thấy trên là của phàm phu có ngã kiến, dùng thức phân biệt nghe thuyết Phật pháp, chẳng thể lìa ngôn nhận nghĩa, vọng chấp ngôn thuyết làm khởi những cái lầm này.
Do Nhị thừa độn căn nên Như Lai vì họ mà nói nhân vô ngã. Vì chỗ nói chẳng phải là cứu cánh, thấy có pháp ngũ ấm sanh diệt, sợ hãi sanh tử, vọng thủ niết bàn. Làm sao đối trị? Vì pháp ngũ ấm, tự tánh chẳng sanh, thời không có diệt, vốn vẫn là niết bàn. Đây phá cái thấy hư vọng của Nhị thừa, thấy có sanh tử đáng chán, có niết bàn đáng chứng, là pháp ngã kiến. Bởi chỉ nghe Như Lai thuyết ngũ ấm vô thường, chưa nghe thuyết sanh tử tức chân thường. Vì chỗ thuyết chẳng phải là cứu cánh nên vọng khởi cái so đo này. Vì sanh tử niết bàn là pháp bị cái ngã đem ra so đo nên nói là pháp ngã kiến. Trên đã làm rõ, do đối trị mà lìa. Dưới làm rõ, do cứu cánh mà lìa.
Lại nữa, chỗ cứu cánh thì lìa vọng chấp. Phải biết nhiễm pháp tịnh pháp đều là tương đãi, không có tự tướng có thể nói. Cho nên tất cả pháp, từ xưa đến nay, chẳng phải sắc chẳng phải tâm, chẳng phải trí chẳng phải thức, chẳng phải có chẳng phải không. Tướng rốt ráo chẳng thể nói. Mà có ngôn thuyết, phải biết đó là phương tiện thiện xảo của Như Lai, mượn ngôn thuyết để dẫn đạo chúng sanh. Còn chỉ thú của ngài đều là ly niệm qui về chân như. Vì niệm tất cả pháp khiến tâm sanh diệt, chẳng nhập được thật trí. Đây làm rõ, chỗ cứu cánh thì quên lời, tổng qui vô niệm. Diệu cách để khế hợp với chân như là bỏ toàn bộ tướng ngôn thuyết đã có. Phần trước nói nhiễm tịnh tương đãi đối phá có không v.v… là tùy bịnh cho thuốc, đều là lời nói đối đãi, chưa phải là chỗ cứu cánh ly ngôn. Nay thuốc bịnh đều bỏ, năng sở cả hai đều quên, đường ngôn ngữ đoạn, chỗ tâm hành diệt, đường tâm trí tuyệt, pháp thế và xuất thế tất cả đều phi. Bởi cảnh giới ly niệm chỉ chứng mới tương ưng. Rốt ráo thì, “tướng chẳng thể nói” mới là chỗ ly ngôn rốt ráo để hiển bày chân như vậy. Đối với cái chẳng thể nói mà có thể nói như trên là vì phương tiện thiện xảo của Như Lai, giả mượn ngôn thuyết để dẫn đạo chúng sanh, còn chỉ thú của ngài đều là ly niệm qui về chân như. Sở dĩ cần phải ly niệm vì niệm tất cả pháp khiến tâm sanh diệt, chẳng nhập được thật trí. Trong môn chân như đã nói “Tất cả pháp chẳng thể nói, chẳng thể niệm nên gọi là chân như” lại nói “Nếu ly niệm gọi là được nhập”. Đây giải thích 2 môn đã xong, làm rõ nhiễm tịnh tương đãi, tóm qui về chân như ly niệm, lìa bỏ toàn bộ tướng ngôn thuyết. Đây quả là ý chỉ vi diệu!
Phần đối trị tà chấp xong. Dưới là phần Phân Biệt Tướng Phát Tâm Vào Đạo.