QUYỂN HẠ - PHẦN GIẢI THÍCH
III. PHÂN BIỆT TƯỚNG ĐẠO PHÁT TÂM
Đạo là chỗ mà tất cả chư Phật chứng được, tất cả Bồ tát phát tâm tu hành hướng đến.
Phần giải thích tiêu đề của chương này là nhằm để giải thích nghĩa THỪA trong phần Lập Nghĩa. Trước đã nói rõ về 2 môn sanh diệt và chân như, thu về nhất tâm. Chư Phật chứng nhất tâm này, lấy đây làm đạo quả là bồ đề niết bàn, gọi là ĐẠI. Chỗ cứu cánh mà tất cả Bồ tát phát tâm tu hành hướng đến cũng chính là tâm này, gọi là THỪA.
Trước đã khai thị cho hiểu, chẳng phải hạnh thì chẳng vào được nên nay lấy hạnh để tiến thú chỗ hiểu mà nhận lấy chỗ thực chứng, chẳng phải là cái giải rỗng không. Song phát tâm tuy như nhau mà chỗ vào của hạnh cạn sâu lại chẳng đồng, nên cần phân biệt mỗi cái có tướng của nó. Vì vậy nói “Phân biệt tướng đạo phát tâm”. Vì nương giải mà phát hạnh, hạnh khởi giải phải dứt nên nói là TƯỚNG ĐẠO.
Phát tâm lược nói có 3 thứ. Thế nào là 3?
-
Tín thành tựu phát tâm.
-
Giải hạnh phát tâm.
-
Chứng phát tâm.
Đây nêu bày phát tâm có 3 tướng. Ba tướng này thông cả 51 vị, tự có cạn sâu chẳng đồng. Đều nói PHÁT TÂM, vì đều là có phát, tuy chẳng đồng.
TÍN THÀNH TỰU phát tâm là mãn tâm Thập Tín vào Sơ Phát Tâm Trụ, là phát khởi sự phát tâm, cũng là khai phát sự phát tâm. Vì sơ tâm của Thập Trụ, tam trí ngũ căn nhất thời khai phát.
GIẢI HẠNH phát tâm là do phát hạnh mà tiến đến phát tâm. Nghĩa là đầy đủ hạnh hướng, hành theo thập độ, nhập vị Hồi Hướng.
CHỨNG phát tâm là Bồ tát đăng địa, đã phá vô minh, phát dụng chân như, là phát dụng mà phát tâm. Vì vậy mà chẳng đồng.
Y nơi hạng người nào, tu những hạnh gì được thành tựu niềm tin mà chịu phát tâm? Đó là y nơi chúng sanh bất định tụ.
Đây nêu câu hỏi để rõ hạng phát tâm. Bất định tụ có 3 tụ là chánh định, tà định và bất định. BẤT ĐỊNH TỤ nói đây là loại tin trước rồi mới phát đại tâm. Song chí chưa quyết, hoặc tiến hoặc thối, là loại “lông đạo” phàm phu (đạo tâm giống như lông trong hư không) nên nói bất định tụ. Đây là hạng thuộc Thiên Đài Ngũ Phẩm Quán Hạnh Vị.
Có lực huân tập thiện căn, tin nghiệp quả báo, hay khởi 10 điều thiện, chán cái khổ sanh tử, muốn cầu Vô Thượng Bồ Đề.
Đây là biện về nhân hạnh đầu tiên khi phát tâm. HUÂN TẬP là, vì có bản giác nội huân còn ngoài thì nghe giáo pháp lưu xuất từ chân như trợ huân, hợp với lực tu hành các thiện căn đời trước, nhân duyên tập hợp nên phát tâm chán sanh tử khổ muốn cầu niết bàn. Nhưng vì chỉ tin vào nghiệp quả, chưa nhập quán hạnh nên thuộc về cái tin trên.
Được gặp chư Phật đích thân cúng dường, tu hành tín tâm. Qua một vạn kiếp, tín tâm thành tựu nên được chư Phật, Bồ tát giáo hóa khiến họ phát tâm. Hoặc vì đại bi nên hay tự phát tâm. Hoặc do chánh pháp muốn diệt, vì nhân duyên hộ pháp nên hay tự phát tâm. Ấy là, tín tâm thành tựu mà phát tâm, nhập chánh định tụ, rốt ráo chẳng còn bị thối thất, gọi là trụ trong chủng tánh Như Lai, tương ưng với chánh nhân.
Đây làm rõ, do hạnh duyên giúp thành tựu tín tâm, trụ ở vị tu tập. ĐƯỢC GẶP CHƯ PHẬT là nhân của sự phát tâm. QUA MỘT VẠN KIẾP là thời gian tu hành. GIÁO HÓA KHIẾN … là duyên của sự phát tâm. Do nhân duyên trong ngoài này mà phát được tín tâm quyết định, nhập chánh định tụ. Do phát chánh tín là chánh nhân thành Phật nên từ đây chẳng còn thối thất nữa. Dưới làm rõ loại bất định.
Nếu có chúng sanh thiện căn ít ỏi, từ lâu xa đến nay, phiền não sâu dày, tuy cũng được gặp Phật Tổ cúng dường, nhưng lại khởi chủng tử trời người, hoặc khởi chủng tử Nhị thừa. Giả như có cầu Đại thừa thì căn tánh cũng bất định, lúc tiến lúc thối. Hoặc là cúng dường chư Phật chưa đến một vạn kiếp, trong khoảng ấy gặp duyên cũng có phát tâm, như là thấy sắc tướng của chư Phật mà phát tâm, hoặc nhơn cúng dường chúng tăng mà phát tâm, hoặc nhơn các vị Nhị thừa giáo hóa khiến phát tâm, hoặc học bên ngoài mà phát tâm v.v… Phát tâm như vậy đều là bất định. Gặp nhân duyên xấu dễ bị thối thất rơi vào Nhị thừa.
Đây là làm rõ hạng bất định tánh, nhân duyên trong ngoài quá kém nên có sự thối thất. THIỆN CĂN ÍT ỎI là lực nội huân yếu. Hoặc thì huân mà đức lại mỏng. Còn không thì đổi qua cầu phước báu trời người hay kỳ vọng vào Nhị thừa nên đối với Đại thừa tiến thối chưa quyết.
Cúng Phật chưa đến một vạn kiếp thì thời gian còn chưa đủ, lại gặp duyên chẳng tốt : vì thấy Phật, cúng dường tăng đều còn trụ ở sắc tướng. Gặp các bậc thầy hạ liệt, chẳng y cứ vào tâm mà tu … những nhân duyên như vậy đều bị thối đọa, bởi chưa nhập được tín tâm nên chẳng được quyết định.
Lại nữa, tín thành tựu phát tâm là phát những tâm nào? Lược nói có 3 thứ. Thế nào là 3?
-
Trực tâm, là pháp chánh niệm chân như.
-
Thâm tâm, là thích gom tất cả các thiện hạnh.
-
Đại bi tâm, là muốn bạt tất cả khổ cho chúng sanh.
Trên làm rõ nhân duyên phát tâm, đây làm rõ chỗ phát tâm. TRỰC TÂM là, tâm như dây thẳng căng mới có thể vào đạo, không có tướng quanh co lắc léo. Vì thế, CHÁNH NIỆM CHÂN NHƯ tức là chân như tam muội. Chân như là gốc của 2 hạnh. Vì đầy đủ công đức vô lậu nên là gốc của tự lợi. Quán chúng sanh tánh đồng nên là gốc của lợi tha. Vì biết thể tánh đủ các công đức nên thích tu tất cả thiện hạnh. Tu không có tướng tu, mỗi mỗi ứng hợp với tánh nên lấy thâm tâm làm bản hạnh tự lợi. Lấy đồng thể đại bi, bạt tất cả khổ cho muôn loài khiến chúng được bồ đề, làm bản hạnh lợi tha. Diệu hạnh tuy lớn nhưng không ra ngoài 3 tâm nên nói LƯỢC NÓI CÓ BA.
Hỏi : Trên nói pháp giới nhất tướng, thể Phật không hai. Vì sao không chỉ niệm chân như, lại mượn tìm học các thiện hạnh?
Đáp : Thí như báu mani lớn, thể tánh nó sáng sạch trong suốt mà có vết quặng làm bẩn. Nếu người tuy biết tánh của báu mà chẳng dùng phương tiện mỗi mỗi mài dũa thì rốt cuộc báu cũng không được sạch trong. Pháp chân như của chúng sanh cũng vậy, thể tánh tịnh không mà có vô lượng phiền não cấu nhiễm. Nếu người tuy niệm chân như mà chẳng dùng phương tiện mỗi mỗi huân tu thì cũng không được tịnh. Bởi cấu nhiễm nhiều vô lượng cùng khắp tất cả pháp nên tu tất cả các thiện hạnh, dùng đó để đối trị. Nếu người tu hành tất cả các thiện pháp, tự nhiên qui thuận pháp chân như.
Đây hỏi để rõ, lý thì đồng mà hoặc thì khác nên cần các thiện hạnh.
Hỏi : Trên nói thể và tánh không khác thì chỉ niệm chân như là đủ, vì sao phải mượn các thiện hạnh?
Đáp : Vì các hoặc quá nhiều nên cần các thiện hạnh. Vì xứng lý mà tu nên ngoài tịnh các vọng nhiễm thì trong thuận với chân như. PHƯƠNG TIỆN là chỉ cho quán hạnh.
Dưới làm rõ, y 3 tâm trên làm rõ về 4 loại phương tiện.
Lược nói phương tiện có 4 thứ. Thế nào là bốn?
- Phương tiện HẠNH CĂN BẢN là, quán tất cả pháp tự tánh vô sanh nên lìa vọng kiến, chẳng trụ sanh tử. Quán tất cả pháp nhân duyên hòa hợp, nghiệp quả chẳng mất nên khởi tâm đại bi tu các phước đức nhiếp hóa chúng sanh, chẳng trụ niết bàn. Vì tùy thuận pháp tánh vô trụ.
Đây là y 3 tâm trên mà lập ra 4 phương tiện. Đầu tiên, làm rõ trực tâm chánh niệm chân như, tu hạnh vô trụ. Nương chân như khởi hạnh nên gọi là HẠNH CĂN BẢN. Vì pháp vốn vô sanh, lìa vọng kiến, nương nơi đại trí hay đoạn phiền não nên CHẲNG TRỤ SANH TỬ. Quán pháp duyên hợp, nghiệp quả chẳng mất nên nương nơi đại bi tu các phước đức nhiếp hóa chúng sanh mà chẳng trụ niết bàn. Vì “có – không” chẳng trụ, hai lợi đều tu nên gọi là hạnh VÔ TRỤ. Vì tánh vốn vô trụ nên TÙY THUẬN PHÁP TÁNH mà tu vậy.
-
Phương tiện HAY DỪNG là, tàm quí và hối lỗi thì có thể dừng tất cả các pháp ác, chẳng để tăng trưởng. Vì tùy thuận pháp tánh lìa các lỗi.
-
Phương tiện PHÁT KHỞI TĂNG TRƯỞNG THIỆN CĂN là, siêng năng cúng dường lễ bái Tam Bảo, tán thán tùy hỉ, khuyến thỉnh chư Phật. Vì tâm thuần hậu ái kính Tam Bảo nên lòng tin được tăng trưởng, mới có thể dốc lòng cầu đạo vô thượng. Lại nhơn nơi lực hộ trì của Phật, Pháp, Tăng có thể trừ bỏ nghiệp chướng, thiện căn chẳng thối thất. Vì tùy thuận pháp tánh lìa si chướng.
Hai phương tiện DỪNG và TẠO nương thâm tâm mà tu này được 2 lợi hạnh.
Nói phương tiện HAY DỪNG là, chưa tạo tác thì tàm quí mà dừng lại. Đã tạo tác thì hối lỗi, không cho nó tăng trưởng. Nên nói “Tàm, quí, hối lỗi có thể dừng tất cả pháp ác chẳng để tăng trưởng”. Vì tùy thuận pháp tánh mà tu nên lìa các hạnh xấu. Đây là trì cái hay dừng.
Ba là, phương tiện PHÁT KHỞI tăng trưởng thiện căn là, chưa tạo thiện thì khiến nó phát khởi. Đã tạo thiện thì khiến nó tăng trưởng. SIÊNG NĂNG CÚNG DƯỜNG … là thiện căn. ÁI KÍNH TAM BẢO … là để tăng trưởng lòng tin, mới có thể dốc lòng cầu đạo vô thượng. Còn nhơn nơi lực hộ trì của Tam Bảo, nghiệp chướng được tiêu trừ là để giữ vững lòng tin.
Tánh vốn ly chướng nên tùy thuận pháp tánh mà tu, xa lìa các chướng ngại. LỄ BÁI thì xa lìa chướng ngã mạn. TÁN THÁN thì lìa chướng hủy báng. TÙY HỈ thì lìa chướng tật đố … Đây là trì cái tạo.
- Phương tiện ĐẠI NGUYỆN BÌNH ĐẲNG là, phát nguyện đến tận vị lai, hóa độ hết thảy chúng sanh, chẳng sót một ai, khiến họ đều được cứu cánh niết bàn vô dư. Vì tùy thuận pháp tánh không đoạn dứt, pháp tánh rộng lớn khắp tất cả chúng sanh, bình đẳng không hai, chẳng niệm đây kia, rốt ráo tịch diệt.
Đây là nương bi tâm tu đại nguyện phương tiện, là hạnh lợi tha. “PHÁT NGUYỆN tận đến vị lai, độ hết thảy chúng sanh” là tâm lâu dài.
CHẲNG SÓT MỘT AI là tâm quảng đại.
“ĐỀU ĐƯỢC cứu cánh niết bàn, tùy thuận pháp tánh không đoạn dứt, pháp tánh rộng lớn bình đẳng không hai, rốt ráo tịch diệt” là tâm bậc nhất.
Bồ tát phát tâm này thì thấy được lờ mờ pháp thân. Do thấy pháp thân nên tùy nguyện lực, hay hiện 8 thứ làm lợi ích chúng sanh. Đó là, rời cung trời Đâu Suất, nhập thai, trụ thai, ra khỏi thai, xuất gia, thành đạo, chuyển pháp luân và nhập niết bàn.
Đây nói về lợi ích của sự phát tâm. Vì Bồ tát Thập Trụ nương môn quán này nên thấy được lờ mờ pháp thân và được 8 thứ lợi ích. Bồ tát Sơ Trụ hay hiện 8 tướng thành đạo thì biết ở địa vị Sơ Trụ, Bồ tát đã có năng lực làm được việc này.
Nhưng Bồ tát này chưa được gọi là Pháp thân Bồ tát. Vì từ vô lượng đời quá khứ đến nay, nghiệp hữu lậu chưa thể đoạn dứt, tùy chỗ sanh còn bị cái khổ vi tế. Nhưng chẳng phải là bị nghiệp trói buộc, bởi do có lực tự tại của đại nguyện.
Đây là giản trạch rõ sự khác biệt đối với Bồ tát đăng địa, vì còn lỗi vi tế. Bồ tát Sơ Trụ, lưu hoặc nhuận sanh. Vì nghiệp quá khứ chưa từng đoạn bao giờ nên còn biến dịch và theo nghiệp phần đoạn mà chịu cái khổ vi tế. Đây chẳng phải là pháp thân. Nhờ lực đại nguyện hộ trì, có được những khoảng tự tại nên chẳng đồng với phàm phu bị nghiệp trói buộc.
Như trong Tudala có chỗ nói “thối đọa ác thú”, chẳng phải là thật thối. Chỉ vì đối với các vị Bồ tát sơ học chưa vào được chánh vị mà lại giải đãi, làm cho sợ hãi khiến họ can đảm mạnh mẽ lên.
Đây nói rõ về quyền giáo.
Hỏi : Bồ tát này đã lìa sự trói buộc của nghiệp, vì sao trong giáo nói có sự thối đọa ác thú?
Đáp : Chẳng phải là thật thối đọa, chỉ là để cảnh cáo các vị sơ học giải đãi, chẳng phải là thật thối. Trong kinh Bổn Nghiệp nói “Bồ tát Thất Trụ trở về trước gọi là thối phần. Nếu chẳng gặp thiện tri thức từ một kiếp cho đến mười kiếp thì thối bồ đề tâm. Còn gặp nhân duyên ác tri thức thì thối trở lại phàm phu, đọa trong các đường chẳng lành”. Đây là tạm dọa các vị sơ học.
Lại, các vị Bồ tát này một khi đã phát tâm thì xa lìa khiếp nhược, rốt ráo chẳng còn sợ rơi vào Nhị thừa. Nếu nghe đến vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp gian nan cần khổ tu hành mới được niết bàn, cũng chẳng khiếp nhược, vì tin và biết rằng tất cả pháp từ xưa đến nay vốn vẫn là niết bàn.
Đây là tán thán thật hạnh. Vì vị Bồ tát này đã thấy pháp thân nên biết tự tánh của tất cả pháp chính là tâm, rốt ráo bình đẳng, biết các pháp từ những kiếp lâu xa chẳng lìa nhất niệm, biết tất cả pháp xưa nay vẫn là niết bàn nên chẳng khiếp nhược. Tức hiển kinh ấy là quyền chẳng phải thật.
Phải biết đây đã chuyển thành thù thắng.
Đây là làm rõ GIẢI HẠNH PHÁT TÂM. Trước, Tín thành tựu là Tín mãn nhập Trụ. Đây thì Hạnh mãn nhập Hướng nên nói chuyển thành thù thắng. Tuy trước có tu 2 hạnh, song còn ở giai đoạn quán hạnh nhập lý. Đây là xuất chân nhập tục nên chuyển thành thù thắng. Dưới giải thích do đâu nói “chuyển thành thù thắng”.
Bởi vị Bồ tát này từ Sơ Chánh Tín đến nay, khi a tăng kỳ kiếp thứ nhất sắp hết, đối với pháp chân như đã thực thâm hiểu hiện tiền, sở tu là ly tướng.
Đây giải thích nguyên do gọi là chuyển thắng. Vị Bồ tát này, từ chánh tín đến mãn tâm Thập Hướng, trải qua vô số kiếp thứ nhất thì hơn một vạn kiếp trên. Vì tu hạnh “chân như ly tướng” thì hơn là tu thập thiện, cúng Phật, kính Tăng … là những hạnh còn chấp tướng. Vì biết tự tánh tất cả pháp chính là tâm, thành tựu huệ thân chẳng do nơi khác mà ngộ nên nói thâm hiểu, là tướng thù thắng. Do thâm hiểu pháp tánh nên thuận tánh mà tu.
Vì biết pháp tánh, thể không xan tham nên tùy thuận tu hạnh Bố thí ba la mật. Vì biết pháp tánh không nhiễm, lìa lỗi ngũ dục nên tùy thuận tu hạnh Giới ba la mật. Vì biết pháp tánh không khổ, lìa sân não nên tùy thuận tu hạnh Nhẫn nhục ba la mật. Vì biết pháp tánh không có tướng thân tâm, lìa giải đãi nên tùy thuận tu hạnh Tinh tấn ba la mật. Vì biết pháp tánh thường định, thể không loạn động nên tùy thuận tu hạnh Thiền ba la mật. Vì biết pháp tánh thể nó sáng suốt, lìa vô minh nên tùy thuận tu hạnh Bát Nhã ba la mật.
Đây làm rõ chỗ tu là hạnh ly tướng. Ba la mật là Phạn ngữ, đây nói “đáo bỉ ngạn”. Bỉ ngạn là mé cứu cánh chân thật. Trí Luận nói “Tu lục độ của nhân thiên và chỗ tu của Nhị thừa đều chưa ly tướng, vì chưa đạt được tam luân thể không, nên chỉ nói là Bố thí độ v.v… chưa nói là ba la mật. Nay ứng hợp với chỗ tu là Bát Nhã pháp tánh, mỗi mỗi đều ly tướng nên được gọi là ba la mật, mỗi mỗi đều đáo bỉ ngạn vậy.
VÌ BIẾT LÌA XAN … các tướng, là ứng hợp với tánh mà tu nên tu mà không có tướng tu. Vì vậy, trong văn hồi hướng nói “Tướng chân như …” chính là hiển cái hạnh ly tướng vậy.
Bồ tát từ Tịnh Tâm Địa đến Cứu Cánh Địa chứng cảnh giới gì? Đó là chân như. Vì y chuyển thức nói là cảnh giới mà cái chứng ấy không có cảnh giới, chỉ là trí chân như, gọi là pháp thân.
Đây nói rõ về CHỨNG PHÁT TÂM. Tam Hiền tuy nói là thuận tánh, song chỉ là tỷ quán. Vì vô minh chưa phá nên chưa thể chánh chứng. Nay nhập Sơ Địa thì 2 chướng phân biệt đã lìa, chân như hiển hiện, khai phát nhất tâm, lấy làm chánh chứng. Nên nói chứng phát tâm là phát đại dụng chân như. Chứng cảnh giới gì? Đó là chân như, là tướng chánh chứng.
“VÌ Y CHUYỂN thức nói tên cảnh giới” là, đây hiển bày bản trí duyên như, không tướng năng sở, tâm cảnh nhất như. Giản trạch chẳng phải chuyển thức hậu đắc duyên như, là biến tướng quán không, có năng sở đối đãi, nên có cảnh giới.
Chân như này lìa tướng năng sở, tồn độc một trí như nên không cảnh giới, chỉ là một trí chân như, gọi là pháp thân.
Bồ tát ấy trong khoảng một niệm có thể đến khắp mười phương thế giới không bỏ xót, cúng dường chư Phật, thỉnh chuyển pháp thân, chỉ vì khai đạo lợi ích chúng sanh, chẳng nương văn tự.
Đây trở xuống là làm rõ dụng thù thắng của chân như, đủ cả quyền và thật đức. Vì chánh chứng chân như thì mười phương pháp giới bình đẳng hiển hiện như ở trước mắt. Tướng thân tự tha như gương soi chiếu lẫn nhau, nên trong một niệm có thể đến các quốc độ trùng trùng như lưới của trời Đế Thích, thừa sự chư Phật, thỉnh chuyển pháp luân. Vì thấy tất cả chúng sanh bình đẳng không hai nên làm lợi ích cho hết thảy chúng sanh. Chỗ thuyết pháp là nhất tâm chân như nên CHẲNG NƯƠNG VĂN TỰ. Đây là chân như phát nghiệp dụng chẳng thể nghĩ bàn. Quyền và thật cùng hiển.
Dưới nói về khả năng thị hiện.
Hoặc thị hiện vượt qua các địa chóng thành chánh giác, là vì các chúng sanh khiếp nhược. Hoặc nói “Ta phải vô lượng a tăng kỳ kiếp mới thành Phật đạo” là vì các chúng sanh giải đãi và khinh mạn. Hay thị hiện như thế, vô lượng phương tiện chẳng thể nghĩ bàn. Mà thật ra, Bồ tát chủng tánh căn cơ là đồng, phát tâm là đồng, chỗ chứng cũng đồng, không có chuyện vượt qua. Vì tất cả Bồ tát đều phải trải qua ba a tăng kỳ kiếp. Chỉ vì thuận theo thế giới chúng sanh chẳng đồng, chỗ thấy chỗ nghe căn dục tánh khác nên thị hiện chỗ hành cũng có sai biệt.
Đây làm rõ, nương đức dụng của chân như mà hiển quyền và thật hạnh. Đầu tiên nói rõ về quyền hạnh.
Nói, vì chúng sanh khiếp nhược sợ Phật đạo trường viễn nên thị hiện vượt địa, tốc thành chánh giác như Long Nữ trong kinh Pháp Hoa, Quảng Ngạch trong kinh Niết Bàn, Thiện Tài trong kinh Hoa Nghiêm.
Vì phế bỏ sự giải đãi đối với các chúng sanh giữa đường sanh giải đãi và kiêu mạn nên thị hiện trải qua vô số kiếp như Thích Ca phải ba a tăng kỳ hạnh mới đầy đủ. Lại, hay thị hiện vô số phương tiện tùy căn tánh chúng sanh mà điều phục chẳng thể nghĩ bàn. Đây đều là quyền trí.
Kỳ thật, căn cứ theo thật hạnh của Bồ tát thì chủng tánh không phân cách nên căn đồng. Y nơi chân mà phát tâm nên phát tâm đồng. Chỗ chứng là chân như nên chứng cũng đồng. Vì pháp tánh bình đẳng, vốn không có pháp vượt qua, lại đều trải qua ba vô số kiếp, nên trì hoãn hay cấp bách là đồng thời. Một bản tế bình đẳng không có tướng sai biệt, chỉ tùy chúng sanh thấy nghe chẳng đồng, căn dục tánh khác nên thị hiện có sai biệt. Đây là thật đức thì chẳng khác mà ứng cơ thì có khác.
Lại, tướng phát tâm của vị Bồ tát này có 3 thứ tâm, tướng nó rất vi tế. Thế nào là ba?
-
Chân tâm không có phân biệt.
-
Phương tiện tâm, tự nhiên làm lợi ích khắp chúng sanh.
-
Nghiệp thức tâm, khởi diệt rất vi tế.
Đây là làm rõ đăng địa tuy có quyền và thật dụng, nhưng vì chưa phải là cứu cánh, nên chưa đồng với Phật.
Hỏi : Đại dụng của Bồ tát như vậy há chẳng đồng với Phật ư?
Đáp : Vì tướng của 3 thứ tâm vi tế chẳng đồng nên chẳng đồng với Phật. Một là chân tâm vô phân biệt, tức thật trí. Hai là phương tiện tâm, tức quyền trí. Ba là nghiệp thức tâm, tức tướng sanh diệt vi tế. Bồ tát này tuy có 2 trí quyền và thật nhưng dị thục chưa không, còn có sanh diệt vi tế nên chẳng đồng với Phật.
Lại vị Bồ tát này, công đức thành tựu viên mãn, nơi cõi Sắc cứu cánh thị hiện thân cao lớn hơn hết thảy thế gian. Là vì một niệm tương ưng với tuệ, vô minh lập tức hết, gọi là nhất thiết chủng trí. Tự nhiên có nghiệp dụng chẳng thể nghĩ bàn, hay hiện mười phương làm lợi ích chúng sanh.
Đây làm rõ quả đức rốt ráo, vì nhân đã tột quả đã đầy. Nơi cõi trời Sắc cứu cánh, thị hiện thành tựu chánh giác. Hiển rõ, hiện báo lợi ích thọ Phật vị, hậu báo lợi ích cho chúng sanh. Đây là nghiệp thức hết, tự nhiên có nghiệp dụng chẳng thể nghĩ bàn, thành tựu nhất thiết chủng trí. Cõi trời Sắc cứu cánh là cõi trời cao nhất sắc giới. Tại cõi trời này, Phật Phật thành đạo đều hiện thân to lớn nhất tọa ở Liên Hoa Cung, thành đẳng chánh giác, là báo thân Phật.
Hỏi : Hư không vô biên nên thế giới vô biên. Thế giới vô biên nên chúng sanh vô biên. Chúng sanh vô biên nên tâm hành sai biệt cũng vô biên. Cảnh giới như thế chẳng thể hạn định, khó biết khó hiểu. Nếu vô minh diệt thì không có tâm tưởng, làm sao có thể biết mà gọi là nhất thiết chủng trí?
Đây hỏi đáp để rõ cảnh giới ly niệm và hiển bày nhất thiết chủng trí. CHỦNG TRÍ là tất cả các loại trí. Vì có thể biết tột cùng từng loại tâm niệm của chúng sanh tận hư không giới, mỗi mỗi biết hết nên gọi là chủng trí. Lại, hư không thế giới vô biên nên chúng sanh vô biên, tâm hành sai biệt cũng vô biên. Cảnh giới như vậy khó hiểu khó biết. Vô minh đã tận, tuyệt không có tâm tưởng, vì sao mỗi mỗi hay biết mà gọi là nhất thiết chủng trí? Đây là lấy hữu tâm tư duy lường đoán cảnh giới chẳng thể nghĩ bàn nên mới đặt ra câu hỏi này.
Đáp : Tất cả cảnh giới vốn là nhất tâm, lìa các niệm tưởng. Vì chúng sanh vọng thấy cảnh giới nên tâm có phần tề. Vì vọng khởi niệm tưởng chẳng ứng hợp với pháp tánh nên chẳng thể hiểu rõ. Chư Phật Như Lai lìa Kiến Tướng nên không chỗ nào mà chẳng khắp. Tâm chân thật chính là tánh các pháp. Tự thể hiển bày soi rõ hết thảy pháp hư vọng và có đại trí dụng với vô lượng phương tiện. Chúng sanh tùy chỗ cảm ứng mà tự nhận hiểu, đều hay khai thị mọi thứ pháp nghĩa nên gọi trí ấy là nhất thiết chủng trí.
Đây làm rõ cảnh giới ly niệm, chỉ chứng mới tương ưng, là chỗ mà chẳng phải tâm thức có thể biết, được gọi là chủng trí. “TẤT CẢ CẢNH giới vốn là nhất tâm” nên viên chứng tâm này thì chúng sanh hiển hiện trong nhất tâm. Tức tâm niệm của chúng sanh đều ở trong tâm tịch diệt, phân minh chiếu liễu.
Chúng sanh chỉ vì vọng niệm mà tự cách, chẳng thấy được tâm Như Lai. Chư Phật Như Lai đã cùng tâm chúng sanh bình đẳng không hai thì không năng sở, lìa Kiến Tướng nên không chỗ nào mà chẳng khắp. Vì Phật tâm chân thật không vọng thì tâm chúng sanh tức là Phật tâm. Vì tự thể hiển bày soi rõ trong tự tâm tất cả vọng pháp chúng sanh, nên từng loại tâm niệm vi tế khởi diệt cho đến mọi thứ dục, mọi thứ ức tưởng phân biệt không gì là không phân minh, như gương hiện hình tượng. Sở dĩ hay có vô lượng phương tiện tùy căn cơ mà điều phục, đều hay khai thị mọi thứ pháp nghĩa là vì có dụng của đại trí. Nên được gọi là nhất thiết chủng trí. Chắc hẳn chẳng phải là chỗ hữu tâm suy lường mà biết được.
Hỏi : Nếu chư Phật có nghiệp tự nhiên hay hiện tất cả chỗ làm lợi ích chúng sanh, còn tâát cả chúng sanh nếu thấy được thân ngài, hoặc thấy thần biến, hoặc nghe ngài nói, không gì là không được lợi ích, vì sao ở thế gian phần nhiều chẳng thể thấy?
Đáp : Chư Phật Như Lai, pháp thân bình đẳng biến khắp tất cả chỗ, không có tác ý, nên nói tự nhiên, chỉ y tâm chúng sanh mà hiện. Tâm chúng sanh giống như chiếc gương, gương nếu cấu bẩn thì sắc tượng chẳng hiện. Tâm chúng sanh cũng vậy, nếu bị cấu nhiễm thì pháp thân chẳng hiện.
Đây hỏi để rõ, đại dụng của pháp thân thì thường nhiên, chỉ vì căn cơ có sáng tối.
Hỏi : Nếu pháp thân của chư Phật tràn khắp. Đại dụng tròn khắp, vì sao thế gian phần nhiều chẳng thấy?
Đáp : Pháp thân Như Lai đại dụng thường nhiên, chiếu khắp chúng sanh. Chỉ vì tâm chúng sanh cấu nhiễm, bị vô minh che ám nên chẳng thấy vậy, chẳng phải lỗi ở Phật.
Lấy GƯƠNG là dụ cho nghĩa THẤY và CHẲNG THẤY. Kinh Hoa Nghiêm nói “Như Lai ra đời ví như ánh sáng mặt trời chiếu khắp đại địa, có mắt đều thấy, chỉ riêng người mù là chẳng thấy. Song chỉ là chẳng thấy, cũng vẫn được lợi ích”. Ý chỗ này muốn nói quan trọng là ở căn cơ, nên dụ như gương vậy.
Văn trước phân biệt tướng phát tâm vào đạo để rõ hạng nhập chánh định tụ. Y pháp tu hành là tóm kết cái ý chánh tông lấy hạnh làm chỗ hiểu. Vậy là đã rõ nghĩa ĐẠI THỪA. Văn dưới nói về phần tu hành tín tâm là riêng vì chúng sanh chưa nhập chánh định tụ, khai thị tín tâm khiến họ phát chánh hạnh, là làm rõ nghĩa KHỞI TÍN.
Đã nói về phần Giải Thích, kế nói về phần Tu Hành Tín Tâm.
Đây là ý muốn nói đến. Trên, giải thích chánh nghĩa để rõ ĐẠI THỪA. Đây, tu hành tín tâm để rõ KHỞI TÍN. Vì để làm phát khởi đối với những chúng sanh chưa nhập chánh định tụ, khiến họ sanh lòng tin chân chánh đối với Đại thừa nên có phần này.