ĐẠI THỪA KHỞI TÍN LUẬN TRỰC GIẢI 9


QUYỂN HẠ - PHẦN TU HÀNH TÍN TÂM

Phần này là y nơi chúng sanh chưa nhập chánh định tụ mà nói, nên nói tu hành tín tâm.

Đây là y nơi hạng căn tánh kém cỏi, loại phát tâm bất định trước, sợ họ rơi vào Nhị thừa nên riêng thuyết phương tiện tu hành tín tâm, khiến khởi đại tín, tiến vào chánh định tụ. Đây là kết phần trước để mở ra phần sau.

Thế nào là tín tâm? Làm sao tu hành? Lược nói tín tâm có 4 thứ.

Đây hỏi về phương tiện giúp phát khởi lòng tin. Trước đã nói về 4 thứ phương tiện để rõ con đường tu chứng. Nay lại hỏi “Thế nào là tín tâm? Làm sao tu hành?” là, với người đã phát chánh tín ở phần trước thì chỉ thuyết 3 tâm 4 hạnh vì họ đã tin chân như, không rơi vào lối rẽ khác, nên tiến liền đến việc tu hành. Nay, đối với hạng cơ kém chướng nặng tất phải mượn nhiều phương tiện, nên nói 4 tín 5 môn để làm phương tiện điều trị. Vì thế, cần lập thêm cửa này để dẫn nhiếp họ, chẳng phải là có sự trùng lắp.

Thế nào là bốn?

  1. TIN BẢN CĂN, đó là thích niệm pháp chân như.

Đây nêu bày cái tin gốc, vì chân như là nền tảng của tín tâm, là gốc của vạn hạnh nên trước cần phải THÍCH NIỆM. Hạng thắng cơ trước đã tin chân như nên chỉ nói trực tâm chánh niệm. Đây, với hạng căn cơ kém, chưa phát được chánh tín thì nói THÍCH NIỆM.

  1. TIN PHẬT có vô lượng công đức, thường nghĩ thân cận, cúng dường, cung kính … hầu phát khởi thiện căn và nguyện cầu tất cả trí.

  2. TIN PHÁP có lợi ích lớn, thường nghĩ tu hành các ba la mật.

  3. TIN TĂNG tu hành chân chánh, tự lợi lợi tha. Thường thích thân cận chúng Bồ tát, cầu học hạnh như thật.

Thích niệm chân như của cái tin trên là nội nhân thù thắng. Tin Tam Bảo này là cái tin ngoại duyên tăng thắng. Vì nhân duyên đều thắng nên thường thích thường niệm, tâm tâm chẳng quên. Vì nội ngoại giao huân nên khiến tín tâm mau được thành tựu. Thì rõ, hạng thối đọa trước là do nhân duyên đều kém. Cho nên, đời mạt pháp tu hành, nếu xả bỏ nhân và duyên này thì không thể phát khởi chánh tín được.

Tu hành có 5 môn, có thể thành tựu lòng tin ấy. Thế nào là 5? Một là môn Thí, hai là môn Giới, ba là môn Nhẫn, bốn là môn Tấn, năm là môn Chánh quán.

4 tín tâm trên, tất cả đều là nhân phát khởi. Tu thì có 5 môn, là duyên giúp thành tựu. Như thí dụ mài dũa báu mani cần có nhiều phương tiện trên, 4 tín 5 môn này bao gồm đầy đủ vạn hạnh nên đặc biệt làm rõ. Trước là xứng với tánh mà tu, đây là chuyên tu.

  1. Thế nào là tu hành môn THÍ? Nếu gặp những ai đến cầu xin, mình có tài vật gì đều tùy lực giúp họ để tự xả xan tham và khiến kẻ kia hoan hỉ. Nếu thấy ách nạn khủng bố nguy bức thì tùy sức mình mà giúp họ hết sợ. Nếu có chúng sanh đến cầu pháp thì tùy sự thông hiểu của mình mà phương tiện giảng nói, chẳng nên tham cầu danh lợi cung kính mà chỉ nghĩ đến việc tự lợi, lợi tha, hồi hướng bồ đề.

Bồ tát lợi sanh theo 3 loại bố thí. Đó là tài thí, vô úy thí và pháp thí.

  1. Thế nào là tu hành môn GIỚI? Là chẳng giết hại, chẳng trộm cướp, chẳng dâm dật, chẳng nói hai lưỡi, chẳng nói lời ác, chẳng nói điều hư dối, xa lìa xan tham, tật đố, giả dối, nịnh nọt, quanh co, sân nhuế, tà kiến. Nếu là người xuất gia thì nên chiết phục phiền não, xa lìa chỗ rối ren ồn náo, thường ở chỗ tịch tĩnh, tu tập hạnh ít muốn biết đủ, hạnh đầu đà v.v… cho đến một tội nhỏ, tâm cũng sanh sợ hãi, hổ thẹn, hối cải. Chẳng được khinh thường những giới cấm Như Lai đã đặt ra. Phải giữ gìn sự tỵ hiềm và chê bai, chẳng để chúng sanh vọng khởi tội lỗi.

Đây là làm rõ giới tướng. Giới có nhiều thứ. Lấy tam tụ tịnh giới để nhiếp là nhiếp luật nghi giới, nhiếp thiện pháp giới, nhiếp chúng sanh giới.

CHẲNG SÁT, chẳng trộm cắp … đoạn 3 ác nghiệp là nhiếp luật nghi giới.

ÍT MUỐN biết đủ, chiết phục phiền não là nhiếp thiện pháp giới.

TỘI NHỎ cũng sinh sợ hãi tương đương với việc giữ gìn sự tỵ hiềm và chê bai.

CHẲNG ĐỂ chúng sanh dấy khởi tội lỗi là nhiếp hóa chúng sanh.

  1. Thế nào là tu hành môn NHẪN? Là phải nhẫn chịu những não hại người khác đem lại mà chẳng ôm lòng trả báo, cũng phải nhẫn chịu đối với lợi, suy, hủy, dự, xưng, cơ, khổ, lạc …

Đây là tướng nhẫn nhục. Cảnh có thuận nghịch, hết thảy đều phải nhẫn. Nhẫn chịu với những não hại mà người khác đem lại là nghịch cảnh. Lợi, suy v.v… 8 thứ này thông cả thuận nghịch. Được tài gọi là LỢI. Mất tài gọi là SUY. Chỉ trích cái xấu của người là HỦY. Bàn bạc cái tốt của mình là DƯï. Tự phô bày điều tốt của mình là XƯNG. Châm biếm chế diễu điều xấu của người là CƠ. Bức thân là KHỔ. Thích ý là LẠC. Gom cả thuận và nghịch gọi là BÁT PHONG (8 gió). Vì bị 8 thứ này buộc ràng mà biển tâm của chúng sanh khởi sóng tham, sân, phiền não. Nay nhẫn được thì chẳng động với bát phong. Song nhẫn có 3 loại là sanh nhẫn, vô sanh nhẫn, tịch diệt nhẫn. Phần này là sanh nhẫn.

  1. Thế nào là tu hành môn TẤN? Là đối với các việc thiện, tâm chẳng giải đãi thối chuyển. Lập chí kiên cường, xa lìa sự khiếp nhược. Phải nhớ từ quá khứ lâu xa đến nay, ta đã hư vọng thọ nhận tất cả đại khổ của thân và tâm, không có lợi ích. Cho nên, cần phải siêng tu các công đức, lợi mình lợi người, chóng lìa các khổ.

Lại nữa, nếu có người tuy tu hành tín tâm nhưng do từ trước đến nay, tạo nhiều ác nghiệp trọng tội, bị tà ma chư quỉ làm não loạn, hoặc là bị các sự việc ở thế gian mỗi mỗi kéo lôi trói buộc, hoặc bị bịnh khổ làm bực phiền … có rất nhiều sự chướng ngại như thế thì cần phải dũng mãnh tinh cần, ngày đêm sáu thời lễ bái chư Phật, thành tâm sám hối, khuyến thỉnh, tùy hỉ, hồi hướng bồ đề thường chẳng bỏ phế để trừ các chướng, thiện căn tăng trưởng.

Đây là làm rõ tướng tinh tấn. Đầu tiên, khiến thiện tâm chẳng giải đãi, lập chí kiên cường là làm nền tảng cho sự tinh tấn. PHẢI NHỚ … để tư duy sách tấn tu thiện chẳng mệt mỏi. LẠI NỮA … là đối với hạng căn cơ chướng nặng thì chỉ ra phương tiện trừ chướng. LỄ PHẬT … là qui y tối thắng, thỉnh cầu gia hộ, là tướng trừ chướng chung. THÀNH TÂM … là tướng trừ bốn chướng:

a. SÁM HỐI, trừ chướng ác nghiệp.

b. KHUYẾN THỈNH, trừ chướng báng bổ pháp.

c. TÙY HỈ, trừ chướng tật đố.

d. HỒI HUỚNG, trừ cái chướng lạc của tam hữu.

CHẲNG BỎ PHẾ là tổng kết cái năng trị. Trừ được các chướng là tổng kết cái sở trị. Do 4 chuớng này hay khiến người tu chẳng phát thiện căn, chẳng hướng đến bồ đề nên 4 chướng trị hết thì thiện căn tăng trưởng.

Thế nào là tu hành môn CHỈ - QUÁN? Chỉ là dừng tất cả tướng cảnh giới, tùy thuận nghĩa quán Samatha. Quán là phân biệt tướng nhân duyên sanh diệt, tùy thuận nghĩa quán Tỳbátxána. Thế nào là tùy thuận? Dùng hai nghĩa ấy dần dần tu tập chẳng tách lìa nhau nên cả hai đều hiện tiền.

Đây giải thích tướng chỉ và quán. Lục độ ứng với hai môn định và tuệ. Nay nói chỉ - quán là, ở nhân thì nói là chỉ - quán, ở quả nói là định - tuệ. Nay muốn cả hai cùng song tu chính là nói ở nhân hạnh nên hợp làm một môn.

SAMATHA, nghĩa của nó tương đương với quán không. Nay tu môn chỉ mà nói tùy thuận nghĩa quán không là ý muốn hiển bày “ngay chỉ là quán”, mà ý chính là ở quán, là do từ chỉ vào quán.

Tông Thiên Thai lập ra “tam chỉ tam quán”. Một là Thể chân chỉ, tương đương với quán không, là thể hợp với chân không, các duyên tự diệt, nhất tâm sáng chiếu, vạn pháp như như, nên “ngay chỉ là quán”, tùy thuận nghĩa Samatha quán không. Môn quán chân như này thành căn bản trí.

Nói “QUÁN LÀ phân biệt … tùy thuận nghĩa quán Tỳbátxána” là Phương tiện tùy thuận chỉ, cái thứ hai trong tam chỉ, tương đương với quán giả. Dù tâm cảnh như như nhưng chẳng làm trở ngại sự quán xét nhân duyên sanh diệt của các pháp huyễn có, tuy có mà tánh thường tự không. Nên tuy quán các pháp là nhân duyên mà chẳng bỏ vạn hạnh, nhất đạo thường phân, nên “ngay quán là chỉ”. Vì vậy nói thuận nghĩa Tỳbátxána quán giả. Môn quán sanh diệt này thành hậu đắc trí.

Ba là Dừng nhị biên phân biệt chỉ, tương đương với quán trung đạo. Nghĩa là, trụ không mà chẳng bỏ vạn hạnh, tiếp có mà một đạo tịnh thanh. Nhị biên chẳng trụ thì lý sự cùng tỏ. Trung đạo nhất tâm thì sáng chiếu cùng soi. Cái dung hội “có - không” này khế hợp với nhất tâm một cách diệu kỳ nên từ tam chỉ mà thành tam quán.

Đây là nhất tâm tam quán vốn không sai biệt. Nay trong ấy chỉ và quán hợp lại song tu. Tuy chưa nói rõ về tam quán mà lý thật đầy đủ. Chỉ cần rõ 2 môn không và giả thì trung đạo nhất tâm tự hiển. Đây là yếu môn vào Đại thừa. Vì vậy trong 5 môn, 4 môn trước chỉ là phương tiện trợ thành, còn chủ ý của luận là ở môn chỉ - quán này. Nên phần dưới nói đầy đủ về tướng tu của chúng. Đại tiểu chỉ quán của tông Thiên Thai đúng lý thì có nhiều môn, song yếu chỉ tu hành của nó chỉ có luận này là nói rõ, rất giản yếu và thẳng tắt. Học giả há chẳng hết lòng ư?

Phần dưới chỉ rõ phương tiện tu chỉ và quán.

a. TU TẬP CHỈ thì, ở chỗ tĩnh lặng, ngồi ngay thẳng, chánh ý, chẳng nương hơi thở, chẳng nương hình sắc, chẳng nương nơi không, chẳng nương đất nước gió lửa … Cho đến, chẳng nương nơi thấy, nghe, hiểu, biết. Tất cả các tưởng thuộc niệm đều trừ. Cũng bỏ luôn tưởng trừ. Vì tất cả pháp vốn không có tưởng. Niệm niệm chẳng sanh. Niệm niệm chẳng diệt. Cũng chẳng được ngoài tâm niệm cảnh giới, sau lấy tâm trừ tâm. Tâm nếu tán loạn dong duổi thì phải nhiếp lại, trụ ở chánh niệm. Chánh niệm ấy là, phải biết chỉ là nhất tâm, không có cảnh giới bên ngoài. Ngay tâm ấy cũng không có tự tướng, niệm niệm bất khả đắc.

Đây nói rộng về hành tướng tu tập chỉ và quán mà phương tiện tu tâm nhập định đều nói đầy đủ ở đây.

Ở CHỖ TĨNH LẶNG là, xả các ngoại duyên, bỏ chỗ ồn náo. Tiểu chỉ - quán của tông Thiên Thai nói rõ : mới nhập định, trước phải học điều thân, tâm và hơi thở. Đây nói NGỒI NGAY THẲNG là điều thân. Chẳng cúi chẳng ngước là nói ngồi ngay thẳng. CHÁNH Ý là điều tâm. Chẳng chìm đắm chẳng trôi nổi, tỉnh và tịch cả hai cùng hiện tiền nên nói chánh ý. Vì ở đây chẳng nương hơi thở nên chẳng điều hơi thở vậy.

“CHẲNG NƯƠNG hơi thở hình sắc” là lìa thân. “CHẲNG NƯƠNG hư không tứ đại” là lìa thế giới. “CHẲNG NƯƠNG thấy nghe hiểu biết” là lìa tâm. Nên Cổ đức dạy người tham thiền, trong thì thoát thân tâm, ngoài thì quên thế giới. Chỉ cần ly tâm ý, ý thức mà tham. Con đường học đạo xuất phàm thánh, yêu cầu của nó là lìa cảnh giới vọng tưởng, nên đây đều nói CHẲNG NƯƠNG thì giải thoát.

5 câu từ “TẤT CẢ các tưởng … niệm niệm chẳng diệt” chính là phương pháp dụng tâm. Tất cả chúng sanh mê chân tâm mình, một bề chỉ nương vọng tâm mà làm việc. Nên nay tu tập, lấy việc trừ tưởng làm tối yếu. Kinh Lăng Già nói “Từ trước chư Thánh đều truyền dạy nhau một câu “vọng tưởng không tánh” làm đích yếu”.

Hỏi : Vọng tưởng không tánh, trừ thế nào?

Đáp : Tất cả các tưởng thuộc niệm đều trừ.

Gọi nhất tâm là niệm trực tâm chánh niệm chân như. Nay mới dụng tâm thì đề khởi nhất niệm này làm chủ, hoàn toàn không có hai niệm. Do lực quán chiếu của nhất niệm này, chỉ cần thấy được chỗ khởi của vọng tưởng thì nhất niệm liền chiếu phá tiêu diệt tức thì, chẳng để nó tương tục. Ngài Vĩnh Gia nói “Đoạn tâm tương tục”. Chủ yếu của việc tham thiền là chẳng để mất nhất niệm này. Đó chính là kỳ yếu.

“CŨNG BỎ luôn cả tưởng trừ” là bỏ cái niệm trừ tưởng. Mới đầu, lấy nhất niệm trừ tưởng. Vọng tưởng đã diệt thì nhất niệm này cũng không lập nên cần phải bỏ.

Hỏi : Đã nói là chánh niệm vì sao lại bỏ?

Đáp : Nhất niệm này chỉ vì trừ tưởng mà lập. Tự thể của chân tâm xưa nay ly tướng, sao lại dung niệm? Vọng tưởng không tánh nên xưa nay chẳng phải là cái có sẵn. Vọng tưởng chẳng phải có sẵn. Nếu lập nhất niệm - là cái đối đãi với vọng tưởng - thì nhất niệm này lại là cái gốc trợ cho vọng tưởng phát triển. Nên nhất niệm này cũng chẳng thể lập. Vì chỗ lập là chân nên chân vọng đều hết, năng sở cả hai đều quên, gọi là chánh niệm.

Do nhất niệm chẳng lập thì niệm niệm chẳng sanh. Nếu niệm niệm chẳng sanh thì cái sáng thường hằng hiện tiền, tịch chiếu rực sáng nên niệm niệm chẳng diệt vậy. Đây là yếu chỉ đích thực của việc tham thiền.

“CŨNG CHẲNG được ngoài tâm niệm cảnh giới, sau lấy tâm trừ tâm” là chỉ ra cái bịnh dụng tâm không đúng. Lực quán chiếu của nhất niệm chẳng thuộc vọng tưởng chuyển. Nếu theo vọng tưởng niệm cảnh giới, rồi sau mới lấy tâm trừ tâm là lấy vọng trừ vọng, tức đuổi theo sự lưu chuyển của sanh diệt. Dụng tâm như vậy rốt cuộc cũng chẳng lìa được vọng tưởng sanh diệt. Người dụng tâm vậy thật không đúng. Nên dưới nói “Nếu tâm dong duỗi tán loạn thì phải nhiếp về chánh niệm”. Nghĩa là, chỗ vọng tưởng vừa mới sanh, lập tức chiếu phá, chẳng theo cái khác chuyển tức là qui về chánh niệm, chẳng đợi theo tâm ngoại duyên rồi sau mới nhiếp. Nên tóm kết rằng “Phải biết duy tâm không có cảnh giới bên ngoài”. Không những ngoại tâm ngoại cảnh mà ngay cả tâm này cũng không có tự tướng, vì niệm niệm bất khả đắc, vì nội, ngoại, tâm, cảnh hết thảy đều tịch diệt. Niệm niệm huân tu như vậy tự nhiên thể hợp với chân như, gọi là “ngay chỉ là quán”.

Nếu khi rời chỗ ngồi, đi đứng tới lui với mọi hành tác, trong tất cả thời, thường niệm phương tiện, tùy thuận quan sát, tập lâu thành thục, tâm ấy được trụ. Do trụ được nên tâm dần dần trở nên sắêc bén, tùy thuận nhập được chân như tam muội, dẹp sâu phiền não, tín tâm tăng trưởng, chóng được bất thối. Chỉ trừ người nghi hoặc, không tin, phỉ báng, bị chướng nghiệp của trọng tội, ngã mạn, giải đãi v.v… là chẳng thể nhập.

Đây chỉ ra phương tiện tùy duyên của môn CHỈ. CHỈ chẳng phải ngồi hoài nên cần chỉ bày phương tiện tùy duyên tu tập để tạm thế vào. Nhờ quán sát đã lâu, dần dần thuần thục, tâm ấy tự nhiên an trụ chân như tam muội, phiền não ẩn dần, tín tâm tăng trưởng, nên có thể chóng được bất thối.

Như vậy, tam muội chỉ có với những hành giả đã có được niềm tin chắc chắn, không ai là không được, chỉ trừ những người chẳng tin, chướng nặng, ngã mạn thì chẳng vào được. Đó là nói, sự trở về của những hạng mê lầm rõ ràng chỉ nhờ lòng tin mà vào được. Nên nói “Biển Phật pháp rộng lớn, tin thì có thể vào”chính là đây.

Lại nữa, nương nơi tam muội này thì biết pháp giới nhất tướng. Tất cả pháp thân chư Phật và thân chúng sanh bình đẳng không hai, gọi là nhất hạnh tam muội. Phải biết, chân như là căn bản của tam muội. Nếu người có tu hành thì dần dần hay sanh vô lượng tam muội.

Phần kết này chỉ ra sự lợi ích thù thắng của chỉ và quán. Nói “NƯƠNG NƠI tam muội này thì biết pháp giới nhất tướng” là, PHÁP GIỚI tức là mười pháp giới và các tướng thánh, phàm, nhiễm tịnh an bày bình đẳng. Chỉ nương chân như tam muội, tổng quán pháp thân chư Phật cùng thân chúng sanh bình đẳng không hai thì gọi là nhất hạnh tam muội. Vì chỉ là nhất chân như thì vô lượng pháp giới chư Phật hoàn toàn không có tướng sai biệt nên bình đẳng vậy. Vì chân như là căn bản của tam muội, có đủ đại dụng chẳng thể nghĩ bàn, nên nếu ai chịu tu hành thì dần dần hay được vô lượng tam muội.

Trên tu chỉ và quán xong. Dưới biện về ma sự.

Có chúng sanh không đủ lực thiện căn thì bị các ma ngoại đạo quỉ thần hoặc loạn. Trong khi ngồi thiền, hoặc hiện hình làm cho hoảng sợ, hoặc hiện tướng nam nữ đoan chánh v.v… Phải niệm duy tâm, cảnh giới tự diệt chẳng thể làm não loạn.

Đây làm rõ ma sự phá hoại định tâm, lược chỉ ra tướng của nó để biết mà đối trị. Kinh Lăng Nghiêm đã nói đầy đủ các ma sự trong khi thiền định y nơi ngũ ấm chưa phá mà hiện. Có 50 loại, sâu cạn chẳng đồng. Lại nói “Có khi là thiên ma, ác quỉ thần, tinh, mị, võng, lưỡng, tất cả đều đến não loạn ông. Có khi là ấm ma, tâm ma của ông tự tạo ra yêu nghiệt cho ông”. Mỗi mỗi đều chỉ ra tường tận. Ở đây chỉ lược nói đại khái.

Nói “CÁC MA ngoại đạo quỉ thần” là, vì khi còn ở nhân hạnh cũng tu thiền định, do trong đó còn chứa tà khí ác tập nên khí phần thiền định đã huân tập phát ra, hiện hình làm não loạn. “PHẢI QUÁN duy tâm cảnh giới sẽ diệt” là, tuy ngoại ma hay gây trở ngại nhưng cái chính là do tự có ác tập nhơn nơi định huân phát nên tự thức nổi nên ngoại chất ấy, biến hình làm hại. Vì vậy nói, duy tâm chẳng phải cảnh giới bên ngoài. Nếu quán duy tâm thì ma sự sẽ tự diệt vậy.

Hoặc hiện hình trời, hình Bồ tát cũng tạo ra hình Như Lai với đầy đủ tướng tốt ; Hoặc thuyết Đàlani, hoặc thuyết bố thí, trì giới, nhẫn nhục, thiền định, trí tuệ ; Hoặc thuyết bình đẳng, không, vô tướng, vô nguyện, không oán, không thân, không nhân, không quả, rốt ráo không tịch là chân như niết bàn ; Hoặc khiến người biết túc mạng và những việc đã qua, cũng biết được những việc chưa đến ; Được tha tâm thông, biện tài vô ngại hay khiến chúng sanh tham trước danh lợi thế gian.

Đây là ma tập khí. Loại ma này là do người tu có nhiều thói quen thân thiết đối với Phật pháp, lại chấp vào những tướng ấy chưa quên được ; hoặc tu tập không quán lấy làm cứu cánh, tham cầu túc mạng tri kiến nên nay nhơn định huân phát, ở trong tam muội hiện các việc này. Do bản nhân không chánh nên khiến tham trước danh lợi thế gian. Đây chính do tâm biến hiện.

Lại khiến người chợt giận chợt mừng, tánh tình bất thường ; Hoặc nhiều thương yêu, ngủ nhiều, bịnh nhiều, tâm sinh giải đãi ; Hoặc chợt khởi tinh tấn, sau lại bỏ phế, sanh lòng chẳng tin, nhiều nghi ngờ, nghĩ ngợi, lo toan ; Hoặc bỏ những thắng hạnh của mình tu các nghiệp tạp nhạp ; Hoặc dính chặt vào mọi thứ ràng buộc lôi kéo ở thế gian ; Cũng hay khiến người được vài phần tương tự như tam muội, đều là sở đắc của ngoại đạo, chẳng phải là tam muội chân thật.

Đây là ma phiền não. Loại ma này có là do từng tu tập tam muội của ngoại đạo, chưa đoạn phiền não. Nay tuy nương Phật pháp tu hành, vì chưa vào được chánh định nên những thói quen cũ đã huân tập phát ra, hiện thành các việc này.

Có khi khiến người, hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày … cho đến bảy ngày trụ ở trong định, tự nhiên được ăn uống các thứ thơm ngon, thân tâm vui thích, chẳng đói, chẳng khát, khiến người ái trước. Hoặc khiến người ăn không có hạn định, lúc nhiều lúc ít, nhan sắc đổi khác … Bởi các nghĩa ấy, hành giả thường nên dùng trí tuệ quán sát, chớ khiến tâm này rơi vào lưới tà. Phải chuyên cần chánh niệm, chẳng nắm giữ, chẳng dính mắc thì hay xa lìa các nghiệp chướng.

Đây là ma dục. Vì chúng sanh ở trong ngũ dục, lấy thực làm mạng nên nghiếp thọ dục thực, sanh nhiều tham trước đối với những thói quen đã sâu đậm. Từ xưa đến nay chưa từng có một niệm xả bỏ dục thực, nên nay tuy ở trong định mà dục tập huân phát. Vì thân tâm được vui thích nên sanh nhiều ái trước. Vì vậy mà dạy “Khiến thường dùng trí tuệ quán sát, chuyên cần chánh niệm, chẳng dính mắc” thì xa lìa vậy.

Nên biết TAM MUỘI CỦA NGOẠI ĐẠO đều chẳng lìa tâm kiến, ái, ngã, mạn nên tham trước danh lợi và sự cung kính ở thế gian. CHÂN NHƯ TAM MUỘI thì, chẳng trụ Kiến Tướng, chẳng trụ tướng đắc, cho đến xuất định cũng không giải đãi, kiêu mạn, phiền não đã có dần dần nhạt mỏng. Nếu các phàm phu chẳng tập pháp tam muội ấy mà tự cho là nhập chủng tánh Như Lai thì không có việc này. Vì, tu các thiền tam muội của thế gian thì khởi vị đắm trước, nương nơi ngã kiến, ràng buộc trong tam giới, chung cùng với ngoại đạo. Nếu không có sự giúp đỡ của thiện tri thức thì khởi cái kiến của ngoại đạo vậy.

Đây biện về tà chánh để chỉ ra sự tu hành chân chánh. Vì ngoại đạo nương nơi tập khí ngã ái, kiến, mạn mà tu đều thành ma nghiệp. Nên trong thì mắc vào tà kiến, ngoài thì vướng vào tà dục. Ấy là sự tu tập thác loạn. Vì chân như tam muội, nhất tâm trạm tịch, quên năng sở, diệt hình tượng, lìa giải đãi ngã mạn, diệt phiền não … nên những hành giả tu hành, chưa có ai không nhờ tam muội này mà nhập chủng tánh Như Lai. Còn thì, các thiền tam muội của thế gian đều mắc vào ngã kiến, tức chung cùng với ngoại đạo. Nếu chẳng được sự điều hộ của thiện tri thức thì rơi vào ác kiến của ngoại đạo vậy. Nên kinh Lăng Già khuyến cáo, phải xa lìa ngoại đạo mà thân cận tối thắng tri thức.

Lại nữa, tinh cần chuyên tâm tu học tam muội ấy thì hiện đời được 10 thứ lợi ích. Thế nào là mười?

  1. Thường được sự hộ niệm của mười phương chư Phật và Bồ tát.

Vì chân như tam muội khéo khế hợp với Phật tâm nên được sự hộ niệm.

  1. Chẳng bị các ma ác quỉ làm cho hoảng sợ.

  2. Chẳng bị 95 thứ ngoại đạo quỉ thần hoặc loạn.

Nhờ lìa ác tập tà kiến nên lìa tà hoặc của thiên ma ngoại đạo.

  1. Xa lìa sự phỉ báng pháp thậm thâm, trọng tội, nghiệp chướng dần dần nhạt mỏng.

  2. Diệt tất cả nghi ngờ và các giác quán xấu ác.

Vì tin sâu tự tâm nên lìa phỉ báng. Tập khí trừ dần nên nghiệp chướng nhạt mỏng. Trực tâm chánh niệm nên diệt nghi, có cái nhìn chân chánh.

  1. Đối với cảnh giới của chư Như Lai, lòng tin được tăng trưởng.

  2. Xa lìa buồn rầu hối hận, ở trong sanh tử mà dũng mãnh, chẳng khiếp sợ.

  3. Tâm được nhu hòa, xả bỏ kiêu mạn, chẳng bị người khác làm cho phiền não.

  4. Tuy chưa được định, nhưng trong tất cả thời, tất cả chỗ cũng giảm bớt được phiền não, chẳng còn ưa thích thế gian.

  5. Nếu được tam muội thì chẳng bị ngoại duyên và tất cả âm thanh làm cho kinh động.

Điều (6) và (7) là được lòng tin quyết định nên tin cảnh giới Phật, lìa lo âu, chẳng khiếp sợ. Điều (8) là lìa ngã quên người nên chẳng bị người não loạn. Điều (9) là phiền não giảm bớt nên chẳng ưa thích thế gian. Điều (10) là tịch lặng quên duyên nên chẳng bị bên ngoài làm động.

6 trần nhưng chỉ nói âm thanh vì lúc nhập định 5 căn đều đóng, chỉ còn nhĩ căn thông trống nên âm thanh dễ làm động. Nay nói bất động nghĩa là “nhập lưu vong sở” vậy.

Trên nói tu CHỈ đã xong, dưới là tu QUÁN.

Lại nữa, nếu người chỉ tu CHỈ thì tâm bị chìm lặng hoặc khởi giải đãi, chẳng thích các điều thiện, xa lìa đại bi cho nên tu QUÁN.

Tâm bị chìm lặng là, vì thú hướng chân như nên chuyên về tịch lặng. Tâm dễ chìm lặng thì mất hai việc :

  1. Giải đãi chẳng tu, tức mất tự lợi. Nên dưới lấy Quán pháp tướng để trị, Quán tinh tấn để thành.

  2. Xa lìa đại bi, tức mất lợi tha. Nên dưới dùng Quán đại bi để trị, Quán đại nguyện để thành.

B. TU TẬP QUÁN

Phải quán tất cả pháp hữu vi ở thế gian không dừng trụ được lâu, giây lát biến hoại.

Quán hạnh có 4 thứ : 1 Pháp tướng. 2 Đại bi. 3 Đại nguyện. 4 Tinh tấn. Trong Pháp tướng lại có 4 thứ. Quán đầu tiên đây là Quán vô thường.

Tất cả tâm hành, niệm niệm sanh diệt, vì vậy nên khổ.

Đây là Quán khổ.

Nên quán các pháp niệm được ở quá khứ chợt thoáng như giấc mộng. Nên quán các pháp niệm được ở hiện tại giống như ánh chớp. Nên quán các pháp niệm được ở vị lai giống như mây bất chợt mà khởi.

Đây là Quán vô ngã. Quá khứ không có tự thể, khó truy tìm. Hiện tại thì sát na chẳng dừng trụ. Vị lai vốn không tích tụ, chỉ do duyên nhóm lại thành hình, chẳng từ mười phương đến.

Nên quán ở thế gian, thứ gì có thân thảy đều bất tịnh, mọi thứ đều ô uế, không một thứ gì đáng thích.

Đây là Quán bất tịnh.

Bốn thứ trên, quán để trừ 4 cái điên đảo trước. Đây là xong phần quán Pháp tướng.

Như vậy, phải niệm tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay đều nhơn nơi sự huân tập vô minh khiến tâm sanh diệt, đã thọ tất cả vạn khổ của thân tâm. Hiện tại thì có vô lượng bức bách. Vị lai, cái khổ cũng không hạn định. Khó xả khó lìa mà chẳng giác biết. Chúng sanh như thế rất đáng thương xót!

Đây là Quán đại bi. Vì chẳng biết khổ nên không có tâm chán khổ. Nên khổ không có hạn định. Đây là chỗ đáng thương xót vậy! Nếu chẳng phải là lòng bi rộng lớn thì chẳng thể cứu được.

Suy nghĩ vậy rồi thì nên dũng mãnh lập đại thệ nguyện. Nguyện cho tâm tôi lìa phân biệt, trải khắp mười phương tu hành tất cả các thiện công đức. Tận đến vị lai, dùng vô lượng phương tiện cứu vớt và làm vơi đi tất cả khổ não cho chúng sanh, khiến họ được cái lạc bậc nhất của niết bàn.

Đây là Quán đại nguyện. Suy nghĩ mình và chúng sanh đồng một thể tánh nên thệ nguyện cứu vớt và bạt khổ cho chúng sanh. LÌA PHÂN BIỆT thì đồng thể. TẬN ĐẾN VỊ LAI là tâm dài lâu. “CỨU VÀ LÀM vơi đi tất cả …” là tâm quảng đại. Được niết bàn là tâm đệ nhất.

Do khởi nguyện như vậy nên trong tất cả thời, tất cả chỗ, tùy sức kham của mình mà giữ các điều thiện, chẳng bỏ việc tu học, tâm không giải đãi. Đây là Quán tinh tấn.

Chỉ trừ thời tọa thiền là chuyên niệm nơi CHỈ, còn tất cả thời còn lại đều phải QUÁN cái gì nên làm, cái gì không nên làm. Hoặc đi hoặc đứng hoặc nằm hoặc dậy đều nên cùng hành CHỈ - QUÁN. Nghĩa là, tuy niệm các pháp tự tánh chẳng sanh mà cũng chính là niệm nhân duyên hòa hợp, nghiệp thiện ác và quả báo khổ vui v.v… chẳng mất, chẳng hoại. Tuy niệm nhân duyên quả báo thiện ác mà cũng chính là niệm tánh chẳng thể nghĩ bàn.

Đây dạy CHỈ - QUÁN song hành trong 4 oai nghi.

“TUY NIỆM các pháp, tự tánh chẳng sanh” là CHỈ.

“CŨNG CHÍNH là niệm nhân duyên hòa hợp, nghiệp thiện ác và quả báo khổ vui v.v… chẳng mất, chẳng hoại” nên rộng tu các thiện hạnh nhiếp hóa chúng sanh là “ngay chỉ là quán”.

“TUY NIỆM nhân duyên nghiệp báo thiện ác” là QUÁN. “CHÍNH LÀ niệm tánh chẳng thể nghĩ bàn” là “ngay quán là chỉ”.

Do đây nên trụ KHÔNG mà chẳng bỏ vạn hạnh, tiếp CÓ mà một tánh trạm nhiên.

Đây là CHỈ - QUÁN song tu.

Tu CHỈ là để đối trị tâm đắm trước của phàm phu, xả bỏ cái thấy khiếp nhược của Nhị thừa. Tu QUÁN là để đối trị cái lỗi tâm hẹp hòi yếu kém chẳng khởi đại bi của Nhị thừa, xa lìa việc chẳng tu thiện căn của phàm phu. Do nghĩa như vậy nên 2 môn CHỈ - QUÁN nương cộng nhau mà thành, chẳng tách lìa nhau. Nếu CHỈ - QUÁN không đủ thì không thể nhập đạo bồ đề.

Đây nói rõ về phép đối trị để rõ chỉ và quán. Do phàm phu tham trước thế gian, Nhị thừa sợ hãi sanh tử nên chỉ bày “ngay quán là chỉ” khiến phàm phu biết thế gian vô thường mà chẳng vướng mắc thế gian, còn Nhị thừa biết cái chân thường của mình thì chẳng sợ sanh tử. Vì vậy nói “đối trị tâm đắm trước của phàm phu, xả bỏ cái thấy khiếp nhược của Nhị thừa”. Cái “ngay quán là chỉ” này trị được 2 lỗi đó.

Nếu tu “ngay chỉ là quán” thì trị tâm yếu kém hẹp hòi của Nhị thừa, khiến khởi đại bi. Cũng trị cái tâm lìa tham trước của phàm phu, biết thế gian vô thường, chuyên cần tu các thiện hạnh. Nên nói “đối trị cái lỗi tâm hẹp hòi yếu kém chẳng khởi đại bi của Nhị thừa, xa lìa việc chẳng tu thiện căn của phàm phu”.

“DO NGHĨA như vậy …” là tóm kết CHỈ - QUÁN cùng hành nương tựa nhau mà thành. Do phàm phu hay chán thế gian nên chuyên cần tu các thiện hạnh, Nhị thừa chẳng sợ sanh tử nên hay khởi đại bi. Đây là CHỈ - QUÁN cùng tương trợ nhau. Cho nên chẳng trụ sanh tử niết bàn mới hay trực thú bồ đề. Đây là sự ích lợi khi vận dụng được cả hai.

Lại nữa, chúng sanh mới học pháp này muốn cầu chánh tín, song tâm lại khiếp nhược - vì trú ở thế giới Ta Bà này sợ chẳng thể gặp Phật để tự thân cúng dường - tín tâm sợ khó có thể thành tựu, ý muốn thối lui thì phải biết Như Lai có nhiều phương tiện thù thắng nhiếp hộ tín tâm. Đó là dùng nhân duyên Ý CHUYÊN NIỆM PHẬT, tùy nguyện được sanh về cõi Phật ở phương kia, thường thấy chư Phật, lìa hẳn ác đạo. Như trong Tudala nói “Nếu người chuyên niệm đức A Di Đà ở thế giới cực lạc Tây phương, thiện căn tu được đều hồi hướng nguyện cầu sanh về thế giới này, liền được vãng sanh, thường thấy được Phật, rốt cuộc chẳng còn thối lui. Nếu quán pháp thân chân như của Phật, thường chuyên cần tu tập, cuối cùng sẽ được sanh ra trụ ở chánh định.

Đây là đối với hạng căn cơ kém, chỉ ra phương tiện để ngăn ngừa sự thối tâm. Chúng sanh mới tu, chưa được chánh tín, trong thì tâm yếu, ngoài thì duyên không được tốt nên sợ thối thất. Vì vậy Như Lai lập bày phương tiện thù thắng để nhiếp hộ tâm họ là ý chuyên niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ để nương nhờ sự hộ trì của chư Phật. Như niệm A Di Đà Phật được sanh Tây phương, ở địa bất thối là hạnh của hạng này.

Tịnh Độ bất thối lược có 3 hạng :

  1. Như hoa sen chưa nở, tín hạnh chưa đầy đủ, chỉ là ước về nơi không có duyên thối thất mà gọi là bất thối.

  2. Hoa nở thấy Phật, tương đương với tín vị đầy đủ, thấy lờ mờ pháp thân, trụ ở chánh định tụ, là hạng bất thối chân thật.

  3. Mãn vị Tam Hiền, được nhập Sơ Địa, chứng pháp thân đầy khắp sanh ở vô biên Phật độ, đây tương đương với hậu vị.

Trên đã nói xong phần Tu Hành Tín Tâm, dưới là phần Lợi Ích Và Khuyên Tu.


MỤC LỤC 🔗


NGUỒN

chanhientam.net


GHI CHÚ


Luận giải liên quan